Xương sọ (bones of cranium)
Xương sọ là một khối gồm 22 xương nằm ở đầu trên của cột sống.
Phân chia. Sọ do hai nhóm xương hợp thành: các xương hộp sọ và các xương mặt.
Hộp sọ là hộp xương bảo vệ cho não do tám xương tạo nên: hai xương đỉnh, một xương
trán, một xương chẩm, một xương bướm, một xương sàng và hai xương thái dương. Các Xương mặt tạo nên khung xương của mặt, gồm mười ba xương dính thành một khối và dính với hộp sọ, và một xương liên kết với hộp sọ, và một xương liên kết với khối xương sọ bằng khớp hoạt dịch, Mười bốc xương mặt là: hai xương lệ, hai xương xoăn mũi dưới, hai xương mũi, hai xương hàm trên, hai xương khẩu cái, hai xương gò má, một xương hàm dưới và một xương lá mía.
Những đặc điểm chung. Ngoài việc tạo nên hộp sọ, các xương sọ cũng tạo nên một số khoang nhỏ khác, bao gồm ổ mũi và các ổ mắt mở ra phía trước. Một số xương sọ chứa những khoang được lót bằng niêm mạc và thông với mũi; chúng được gọi là những xoang cạnh mũi. Trong xương thái dương có những khoang nhỏ chứa các cấu trúc liên quan tới thính giác và thăng bằng.
Trong các xương sọ, chỉ có xương hàm dưới là có thể chuyển động được, các xương
còn lại dính chặt với nhau thành một khối bằng các đường khớp bất động.
Hộp sọ có một nền để não nằm trên và một vòm bao quanh và đậy trên não. Các xương của vòm sọ được tại nên từ hai bản xương đặc (bản ngoài và bản trong) ngăn cách nhau bằng một lớp xương xốp gọi là lõi xốp. Mặt trong hộp sọ dính với màng não cứng, mặt ngoài tạo nên chỗ bám cho các cơ đầu mặt. Ngoài việc tạo khung xương của mặt, các xương mặt còn bảo vệ cho đường vào của các hệ hô hấp và tiêu hoá. Cả khối xương sọ bảo vệ và nâng đỡ cho các giác quan chuyên biệt về nhìn, nếm, ngửi, nghe và thăng bằng.
Các xương hộp sọ (brain box)
Xương trán (frontal bone). Xương trán gồm hâi phần chính: một phần tạo nên trán (phần trước của hộp sọ) là trai trán, một phần nằm ngang tạo nên trần ổ mắt và hầu hết phần trước của nền sọ (hố sọ trước). ở mặt ngoài, hai phần của xương trán gặp nhau tại bờ trên ổ mắt. Ngay trên bờ này, bên trong trai trán co hai xoang trán.
Các xương đỉnh (parietal bone). Hai xương đỉnh tạo nên phần lớn của các mặt bên và đỉnh sọ. Chúng tiếp khớp với nhau tại đường khớp dọc, với xương trán tại đường khớp vành, với xương chẩm tại đường khớp lambda và với các xương thái dương tại các đường khớp trai. Mặt trong của xương đỉnh lõm và có những rãnh để các mạch máu đi qua.
Thành phần của hộp sọ
- Xương trán
- Xương mũi
- Xương lệ
- Cánh nhỏ xương bướm
- Xương chính mũi
- Cánh lớn xương bướm
- Mảnh thẳng đứng
- Xoăn mũi giữa
- Xương lá mía
- Xoăn mũi dưới
- Xương hàm dưới
- Xương đỉnh
- Khuyết trên ổ mắt
- Cánh lớn xương bướm
- Xương thái dương
- Hốc mắt
- Xương gò má
- Lỗ mũi trước
- Lỗ dưới ổ mắt
- Xương hàm trên
- Răng
- Lỗ cằm
Các xương thái dương (temporal bone). Mỗi xương thái dương tạo nên một mặt dưới - bên của hộp sọ và một phần của nền sọ. Nó tiếp khớp với các xương đỉnh, chẩm, bướm và gò má bằng các khớp bất động. Xương thái dương do ba phần tạo nên: phần đá, phần trai và phần nhĩ.
Phần đá có hình tháp tam giác nằm ngang qua nền sọ, giữa xương bướm và xương chẩm. Phần này chứa tai giữa và tai trong, và những ống cho động mạch cảnh trong và thần kinh mặt đi qua. ống động mạch cảnh có một lỗ ngoài mở ra ở mặt dưới phần đá và một lỗ trong mở ra ở đỉnh phần đá. Mỏm nhọn từ mặt dưới phần đá nhô xuống dưới là mỏm trâm. Nền phần đá hướng ra ngoài và ra sau. Mỏm lồi trên nền phần đá, ở ngay sau lỗ tai ngoài, được goi là mỏm chũm. Trong mỏm chũm có nhiều xoang nhỏ. ở giữa mỏm trâm và mỏm 9 chũm có lỗ trâm - chũm, nơi ra khỏi sọ của thần kinh mặt. Trên mặt sau phần đá có lỗ và ống tai trong, nơi các thần kinh sọ VII và VIII đi qua. Bờ sau phần đá cùng với xương chẩm giới hạn nên lỗ tĩnh mạch, nơi đi qua của tĩnh mạch cảch trong.
Phần trai là mảng xương mỏng hình quạt. Phần dưới của trai thái dương tách ra mỏm gò má chạy ra trước tiếp khớp với mỏm thái dương của xương gò má; mỏm của hai xương cùng nhau tạo nên cung gò má. Hố lõm nằm ở mặt sau dưới mỏm gò má là hố hàm dưới và chỗ lồi tròn ờ trước hố này là củ khớp. Hố và củ tiếp khớp với chỏm xương hàm dưới tạo nên khớp thái dương hàm dưới.
Phần nhĩ là mảnh xương mỏng vây quanh lỗ và ống tai ngoài.
Xương chẩm (Occipital Bone). Xương chẩm tạo nên phần sau của vòm và nền sọ. Xương chẩm gồm ba phần vây quanh lỗ lớn xương chẩm. Lỗ lớn là nơi hành não liên tiếp với tuỷ sống. Trước lỗ lớn là phần nền, hai bên là các phần bên và ở sau là trai chẩm. Mặt trên phần nền dốc đứng với được gọi là dốc. Trên mỗi phần bên có một lồi cầu chẩm tiếp khớp với mặt trên của khối bên đốt đội và một ống thần kinh hạ nhiệt, nơi đi qua của thần kinh sọ XII. Mặt sau trai chẩm có ụ chẩm ngoài ở giữa và các đường gáy ở mỗi bên. Giữa mặt trước (hay mặt trong) trai chẩm có ụ chẩm trong. Gờ xương từ ụ này đi tới lỗ chẩm là mào chẩm trong, còn hai rãnh kế tiếp nhau từ ụ chạy sang hai bên là rãnh xoang ngang và rãnh xoang Sigma. Rãnh xoang ngang ngăn cách hai hố ở mặt trong trai chẩm: hố đại não ở trên và hố tiểu não ở dưới.
Xương bướm (Sphenoid/ sphenoidal bone). Xương bướm nằm ở giữa nền sọ và tiếp khớp với tất cả các xương khác của hộp sọ. Ngoài hộp sọ, nó còn góp phần tạo nên trần ổ mũi và các thành ổ mắt. Các phần của xương bướm là thân, cánh nhỏ, cánh lớn và các mỏm chân bướm. Thân nằm giữa xương bướm, tiếp giáp với xương sàng ở trước và xương chẩm ở sau. Mặt trên của thân xương bướm có rãnh trước giao thoa và hố tuyến trên. Mỗi cánh nhỏ dính vào phần trước của thân bướm bằng hai rễ và cùng thân bướm giới hạn nên ống thị giác, nơi đi qua của thần kinh sọ II. ở phía sau, mỗi cánh lớn cũng từ một bên thân bướm chạy sang bên, tạo nên phần giữa của nền sọ. Hai cánh cùng với thân bướm giới hạn nên khe ổ mắt trên, nơi đi qua của các thần kinh V1, III, IV và VI. Trên các cánh lớn có lỗ tròn và lỗ bầu dục, lần lượt là nơi đi qua của thần kinh V2 và V3. Các mỏm chân bướm từ thân chạy xuống các thành bên ổ mũi. Trong thân xương bướm có các xoang bướm thông với ổ mũi.
Xương sàng (Ethmoid/Ethmoidal bone). Xương sàng nằm trên đường giữa, ở phần trước nền sọ. Nó còn góp phần tạo nên vách mũi, trần ổ mũi, thành ngoài ổ mũi và thành trong ổ mắt. Các phần của xương sàng gồm mảnh sàng, mảnh thẳng đứng và các mê đạo sàng. Mảnh sàng lắp vào chỗ khuyết của phần ổ mắt xương trán, ngăn cách hố sọ trước với ổ mũi; giữa mặt trên của mảnh sàng nhô lên một mỏm hình tam giác gọi là mào gà, hai bên mào có các lỗ sàng. Mảnh thẳng đứng chạy vào vách mũi. Mỗi mê đạo sàng là một khối xương xốp nằm ở giữa ổ mắt và ổ mũi. Khối này chứa các xoang sàng thông với ổ mũi. Hai mảnh xương từ mặt trong mỗi mê đạo sàng nhô vào ổ mũi được gọi là các xoăn mũi trên và dưới.
2.2. Các xương mặt (Facia Skeleton):
Xương hàm trên (Maxilla). Hai xương hàm trên (đã dính lại) tạo nên hàm trên và tiếp khớp với tất cả các xương mặt khác, trừ xương hàm dười. Nó tạo nên một phần của sàn ổ mắt, một phần của thành bên và sàn ổ mũi, và hầu hết khẩu cái cứng. Xương hàm trên gồm thân và các mỏm. Thân có các mặt hướng về ổ mắt, ổ mũi, hố dưới thái dương (được gọi lần lượt là mặt ổ mắt, mặt mũi và mặt dưới thái dương) và về phía trước (mặt trước). Những chi tiết quan trọng trên các mặt này là: rãnh dưới ổ mắt ở mặt ổ mắt, lỗ dưới ổ mắt và khuyết mũi ở mặt trước, củ hàm ở mặt dưới thái dương, rãnh lệ và lỗ xoang hàm trên ở mặt mũi. Thân xương chứa một xoang lớn mở vào ổ mũi, xoang hàm trên. có bốn mỏm từ thân xương nhô ra: mỏm trán chạ lên tiếp khớp với xương trán; mỏm gò má tiếp khớp với xương gò má; mỏm huyệt răng là một cung mang các huyệt răng của các răng hàm trên; và mỏm khẩu cái tạo nên 3/4 trước khẩu cái cứng. Xương hàm trên cùng cánh lớn xương bướm giới hạn nên khe ổ mắt dưới.
Xương hàm dưới (Mandibula). Xương hàm dưới gồm một thân và hai ngành hàm. Thân xương hàm dưới cong hình móng ngựa, gồm một nền dày ở dưới và phần huyệt răng 12 ở trên. Giữa mặt trước nền hàm dưới lồi ra ở thành lồi cằm và mỗi bên có một lỗ cằm. Phần huyệt răng cong thành cung huyệt răng và mang các lỗ huyệt chân răng hàm dưới. Mỗi ngành hàm dưới liên tiếp với thân hàm dưới tại góc hàm dưới. Từ đây, ngành hàm chạy lên trên gần như vuông góc với thân hàm. Đầu trên của ngành hàm tách ra thành mỏm vẹt ở trước và mỏm lồi cầu ở sau; giữa hai mỏm này là khuyết hàm dưới. Mỏm lồi cầu có một chỏm tiếp khớp với hố hàm dưới và củ khớp của xương thái dương. Trên mặt trong của ngành hàm có một lỗ cho thần kinh huyệt răng dưới đi vào xương hàm, lỗ hàm dưới. Lỗ này là cửa vào của ống hàm dưới. Miệng lỗ được chắn bằng một mảnh xương gọi là lưỡi hàm dưới.
- Xương mũi (Nasal bone). Các xương mũi gặp nhau trên đường giữa và tạo nên một phần của cầu mũi. Xương lệ (Lacrimal bone). Hai xương lệ là những xương nhỏ nằm ở sau và ngoài các xương mũi và tạo nên một phần thành trong ổ mắt. Xương lệ cùng với mỏm trán xương hàm trên giới hạn nên hố lệ, nơi mà túi lệ nằm.
- Xương gò má (Zygomatic bone). Xương gò má làm cho gò má lồi lên thành gò và tạo nên một phần của thành ngoài và sàn ổ mắt. Nó tiếp khớp với các xương trán, hàm trên, bướm và thái dương.
Hình 2.6. Xương sọ (Nhìn từ bên)
- Xương khẩu cái (Palatine bone). Xương này gồm mảnh nằm ngang và mảnh thẳng đứng hợp thành hình chữ L. Mảnh nằm ngang cùng với mảnh nằm ngang của xương bên 13 đối diện tạo thành phần sau của khẩu cái cứng. Mảnh thẳng đứng nhô lên trên để tạo nên một phần của thành ngoài ổ mũi và một phần sàn ổ mắt.
- Xương xoăn mũi dưới (Inferior nasal concha). Mỗi xương này là một xương mỏng cuộn lại và nhô vào ổ mũi ở dưới xương xoăn mũi giữa.
- Xương lá mía (Vomer). Đây là một xương mỏng hình tam giác tạo nên một phần vách mũi. Nó tiếp khớp ở dưới với các xương của khẩu cái cứng tại đường giữa và ở trên với mảnh thẳng đứng của xương sàng và xương bướm.
- Xương móng (Hyoid bone). Xương này không thuộc xương sọ nhưng được mô tả cùng xương sọ cho tiện. Nó là một xương rời hình móng ngựa nằm trong các mô mềm của vùng cổ, ở ngay trên thanh quản và dưới xương hàm dưới. Xương móng gồm một thân nằm ngang và hai sừng ở mỗi bên: sừng lớn và sừng nhỏ.